Menu

Đường dây tiếp nhận ý kiến
0983609369 [email protected]
Số ISSN: 2525-2542; ISSN: 3030-4032
Journal of Endocrinology and Health Science
Số ISSN: 2525-2542; ISSN: 3030-4032
Journal of Endocrinology and Health Science
Menu
×
Tập 21, Số 2 (2024)
PDF
  • Ngày xuất bản: 2024-05-30
  • Lượt xem: 29
  • DOI:
Số xuất bản
Trích dẫn bài báo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Nguyễn Ngọc Anh (2009). Bước đầu đánh giá hiệu quả của phương pháp TCI bằng propofol trong phẫu thuât bụng. Sinh hoạt khoa học chuyên đề TCI những ứng dụng ban đầu ở Việt Nam. Huế. Tháng 3/2009.
2.    Hoàng Văn Bách, Nguyễn Quốc Kính, Công Quyết Thắng (2011). Khởi mê tĩnh mạch bằng kỹ thuật propofol - TCI kết hơp theo dõi độ mê bằng Entropy. Tạp chí y học thực hành, 2011;744, 11-13.
3.    Nguyễn Quốc Khánh (2009). Bước đầu so sánh gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol có hay không kiểm soát theo nồng độ đích. Tài liệu hội thảo sinh hoạt khoa học chuyên đề TCI trong gây mê hồi sức thế kỷ 21. Hà Nội. Tháng 5/2009.
4.    Vũ Hoàng Phương (2011). Ứng dụng TCI trong gây mê ngoài phòng mổ. Tài liệu hội thảo ứng dụng gây mê có kiểm soát nồng độ đích (TCI) trong thực hành lâm sàng. Hà Nội. Tháng 9/2011.
5.    Gale T, Leslie K, Kluger M. (2001). Propofol anaesthesia via targetcontrolled infusion or manually controlled infusion: effects on the bispectral index as a measure of anaesthetic depth. Anaesth Intensive Care. Dec; 2001; 29(6):579-84.
6.    Guignard B, Dhonneur G, Kirov K, Waileck P, Margenet A, Duvaldestin P. (1995). Propofol- Alfentanil versus Propofol: effect on the awakening and the recovery of the swallowing reflex after general anesthesia for colonscopy. Agents and techniques of anesthesia; 1995;37: 6.
7.    Nguyễn Văn Chừng (2004). Sử dụng lâm sàng thuốc gây mê hồi sức. Nhà xuất bản Y học, 2004; 104-106.
8.    Evans  J.M.,  Davies  W.L. (1984).  Monitoring  anaesthesia,  Clin Anesth, 1984;2, 243 – 262.
 

ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI HUYẾT ĐỘNG, TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY MÊ TĨNH MẠCH CÓ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO NỘI SOI TÁN SỎI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG TẠI TRUNG TÂM KỸ THUẬT CAO VÀ TIÊU HÓA HÀ NỘI

Trần Nguyễn Nhật, Trần Quang Hải, Lê Đức Thuận, Nguyễn Hoàng Việt Tuấn

TÓM TẮT
Phương pháp gây mê tĩnh mạch propofol kiểm soát nồng độ đích với thông khí hỗ trợ có nhiều ưu điểm so với không kiểm soát nồng độ đích, có thể áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả khá cao. Nghiên cứu tiền cứu, mô tả lâm sàng có đối chứng, tại Trung tâm Kỹ thuật cao và Tiêu hóa Hà Nội, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trong thời gian từ tháng 02 năm 2021 đến tháng 10 năm 2021, với cỡ mẫu 120 BN ASA I/II được lựa chọn cho can thiệp hệ tiết niệu có hoặc không về trong ngày, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I (60BN) gây mê tĩnh mạch với propofol kiểm soát nồng độ đích (KSNĐĐ). Nhóm II (60BN) gây mê propofol bằng bơm điện thông thường không kiểm soát nồng độ đích. Theo nghiên cứu của chúng tôi: Mức giảm tần số tim trung bình của 2 nhóm là 24,2±9,6% và 26,4±9,8% theo thứ tự TCI/BTĐ. Số ca hạ HA và số ca phải sử dụng ephedrin nâng HA nhóm BTĐ đều nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TCI: 30 ca (50%) so với 18 ca (30%) và 23 ca (38,3%) so với 12 ca (20%). Điểm an thần khi về phòng hồi tỉnh nhóm kiểm soát nồng độ đích cao hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích: 4,5 ± 0,7 điểm so với 4,2 ± 0,6 điểm (p<0,05). Không có sự khác biệt về các tác dụng không mong muốn và các biến chứng ở hậu phẫu giữa 2 nhóm nghiên cứu.

Từ khóa: Gây mê tĩnh mạch, kiểm soát nồng độ đích, gây mê thông khí hỗ trợ, can thiệp tiết niệu. 

ABSTRACT 

ASSESSMENT OF CHANGES OF HEMODRATED, ADVERSE EFFECTS OF INTRAVENOUS ANESTHESIA WITH AND WITHOUT TARGET CONTROLLED INFUSION PROPOFOL  FOR UROLOGICAL PROCEDURES AT THE HANOI HIGH AND DIGESTIVE CENTER.

Intravenous anesthesia with propofol TCI together with LMA ventilation has many advantages compared to propofol without TCI. It can apply to medium and short urological procedures for outpatients, with pretty high efficiency. Randomized  controlled  clinical  trials.  At the Hanoi High Tech and Digestive Center, Saint Paul General Hospital from February 2021 to October 2021, 120 ASA I/II patients are selected to undergo ambulatory  urological  procedure,  then  randomly  divided  into  2  groups.  Group  1  in (60  patients)  were  received intravenous  anesthesia  with  target  controlled  infusion  (TCI)  propofol.  Group  II  (60 patients)  were  received propofol through electric syringe pump. According to our research: The mean reduction in heart rate of the 2 groups was 24.2±9.6% and 26.4±9.8% in the order TCI/BDR. The number of cases of lowering blood pressure and the number of cases requiring ephedrine to raise blood pressure were significantly higher in the DR group than in the TCI group: 30 cases (50%) compared with 18 cases (30%) and 23 cases (38.3%) ) compared with 12 cases (20%). The sedation score when returning to the recovery room in the control group was higher than the target concentration control group: 4.5 ± 0.7 points compared to 4.2 ± 0.6 points (p<0.05). There was no difference in adverse events and postoperative complications between the 2 study groups.

Key  words: Intravenous  anesthesia,  target  controlled  infusion,  anesthesia  for  outpatient,  urological